/media/Duong-mon-truong-son-mot-ky-tich-cua-dan-toc1.jpg
Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại

   Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh đã trở thành tuyến đường huyết mạch, đóng vai trò sống còn trong việc vận chuyển cán bộ, vũ khí và những hàng hóa thiết yếu từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam. Đây chính là tuyến vận tải chiến lược, góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

   Thời kỳ 1959 - 1964: Đây là giai đoạn mà một phần của Đường Trường Sơn vốn đã tồn tại từ hàng thế kỷ dưới dạng các con đường mòn sơ khai dùng cho giao thông buôn bán trong khu vực. Vùng đất mà hệ thống này đi qua là một trong những khu vực hiểm trở nhất Đông Nam Á với những dãy núi cao, ít dân cư và rừng rậm nhiệt đới. Trong những năm đầu của chiến tranh Đông Dương, Việt Minh đã tận dụng hệ thống đường mòn này để nối liền Bắc và Nam, trở thành tuyến đường quan trọng để cán bộ di chuyển giữa hai miền, nhằm tránh sự truy lùng của quân đội Pháp. Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thành lập và nhận sự hậu thuẫn của Mỹ, việc phủ nhận tổng tuyển cử toàn quốc theo Hiệp định Genève 1954 đã dẫn đến sự chia cắt Việt Nam thành hai miền tại vĩ tuyến 17. Để tiếp tục chi viện cho phong trào cộng sản miền Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định xây dựng các con đường chiến lược. Hai tuyến đường được xem xét là quan trọng: một tuyến qua dãy Trường Sơn và một tuyến trên biển Đông.

   Vào năm 1959, khi xung đột quân sự giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và chính phủ Ngô Đình Diệm gia tăng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giao nhiệm vụ cho Đoàn 559 mới thành lập vào tháng 9, với mục tiêu xây dựng hệ thống đường Trường Sơn. Đoàn 559, gồm một tiểu đoàn giao liên (D301) với 440 người, có nhiệm vụ vừa vận chuyển, vừa mở đường hành quân, thực hiện phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” để đảm bảo tính bí mật. Đoàn 559 đã chuyển các tuyến giao thông sang sườn Tây dãy Trường Sơn, và chỉ trong một năm, quân số của đoàn đã tăng lên 6.000 người, gồm hai trung đoàn 70 và 71. Số quân này không bao gồm lực lượng chiến đấu, mà chủ yếu là những người bảo vệ dân công Việt và Lào. Trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, đường Trường Sơn chỉ được dùng để chuyển quân, vì việc vận chuyển vũ khí qua đường biển có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sau khi hải quân Mỹ tăng cường hoạt động ngăn chặn đường biển, việc vận chuyển qua đường Trường Sơn trở nên không thể thiếu. Hàng hóa được chuyển vào miền Nam và lưu giữ trong các kho tàng dọc theo biên giới, được gọi là các “Khu căn cứ”. Tại đây, hệ thống đường đã phát triển thành một mạng lưới phức tạp của các con đường đất, được ngụy trang kỹ lưỡng khỏi sự quan sát của đối phương.

   Thời kỳ 1965 - 1968: Đây là giai đoạn mà việc ngăn chặn sự phá hoại của địch và mở rộng mạng lưới giao thông diễn ra mạnh mẽ. Đến tháng 4/1965, quân số của Đoàn 559 đã lên tới 24.000 người, vừa chiến đấu để ngăn chặn các cuộc phá hoại của địch, vừa mở rộng các tuyến đường phục vụ chiến trường miền Nam. Theo thông tin tình báo Mỹ, số quân qua đường Trường Sơn vào Nam đã gia tăng đáng kể trong những năm đầu: năm 1961 là 5.843 người, năm 1962 là 12.765 người, năm 1963 là 7.693 người và năm 1964 là 12.424 người. Khả năng cung ứng của Đoàn 559 đạt 20-30 tấn mỗi ngày vào năm 1964. Đến năm 1966, Mỹ ước tính có từ 58.000 đến 90.000 quân vào Nam qua đường Trường Sơn. Mùa khô năm 1966-1967 đánh dấu sự chuyển biến lớn trong chiến thuật vận tải của Đoàn 559, từ “phòng tránh tích cực” sang “tiến công” với sự phối hợp binh chủng. Các sở chỉ huy được đưa gần đường để dễ dàng hỗ trợ, và nhiều tuyến đường vòng được mở thêm để đảm bảo giao thông thông suốt. Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã kéo dài 2.959 km, trong đó có 275 km đường chính, 576 km đường vòng và 450 km đường vào các khu kho chứa. Trong năm 1967, hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất giữ, và có 200.000 quân, bao gồm 7 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập, đã di chuyển an toàn vào Nam.

   Thời kỳ 1968 - 1972: Đến giai đoạn này, tình báo Mỹ phát hiện một hệ thống đường ống dẫn xăng dầu chạy từ Vinh vào Nam, và đến năm 1969, hệ thống này đã vượt qua biên giới vào Lào, đến năm 1970 đã vươn gần thung lũng A Sầu (Thừa Thiên Huế). Được hỗ trợ bởi các trạm bơm nhỏ, đường ống này có thể vận chuyển xăng, dầu diesel và dầu hỏa qua cùng một ống. Số lượng đường ống vào Lào đã tăng lên 6 vào năm 1970. Hành lang vận chuyển đã mở rộng từ 20 dặm lên tới 90 dặm. Vào năm 1971, "đường kín" dưới tán rừng được xây dựng, cho phép xe tải di chuyển suốt dọc đường mà không bị lộ. Trong hai năm 1969-1970, số quân di chuyển qua đường Trường Sơn vào miền Nam đạt 348 đoàn, trong đó có 46 tiểu đoàn trang bị mạnh, 24.530 tấn vũ khí. Sau khi Hàng rào McNamara bị phá vỡ vào năm 1970, chiến lược quân sự của Mỹ gặp bế tắc, không thể tìm ra cách cắt đứt hệ thống đường Trường Sơn.

   Thời kỳ 1973 - 1975: Sau khi Hiệp định Paris được ký kết và thực thi, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và Lào. Lúc này, tuyến chi viện chiến lược Đường Trường Sơn được mở rộng và phát triển nhanh chóng. Đến năm 1974, tuyến phía Đông cũng được mở thêm, tạo thành một hệ thống giao thông liên hoàn. Quân đội nhân dân Việt Nam đã lần đầu tiên thực hiện các cuộc tiến công kết hợp binh chủng, tấn công bộ binh với sự hỗ trợ của xe tăng và pháo hạng nặng, đánh bại các vị trí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hệ thống đường Trường Sơn đã đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường lực lượng và cung cấp vật tư cho chiến trường miền Nam. Đến mùa hè năm 1974, tuyến đường Đông và Tây Trường Sơn đã liên kết hoàn chỉnh, trở thành cơ sở hạ tầng chiến lược, giúp bảo đảm chi viện liên tục và nhanh chóng cho chiến trường. Với tổng chiều dài gần 20.000 km đường ô tô, 1.400 km đường ống dẫn dầu, và hàng ngàn cầu cống, Đường Trường Sơn trở thành tuyến đường huyết mạch của cuộc kháng chiến. Quân đội nhân dân Việt Nam nhờ vào hệ thống này đã có thể hành quân nhanh chóng và hiệu quả, tiến vào giải phóng miền Nam.

0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
    Bình luận