/media/noi_buon_chien_tranh.jpg
Nỗi buồn chiến tranh

   Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Đó là lòng tiếc thương vô hạn đối với những người cùng thế hệ với mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa  về quá khứ, những suy tư nghiền ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người.

   Tác giả Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương sinh năm 1952, đi lính 1969, chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên (B3) trong phiên chế của sư đoàn 10 bộ binh thuộc quân đội nhân dân Việt Nam (Bắc Việt). Sau 1975 Bảo Ninh giải ngũ, đi học trường viết văn Nguyễn Du, và trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Sáng tác của ông tập trung chính vào đề tài chiến tranh đặt dưới một cái nhìn nghệ thuật trần trụi và tỉnh táo. Trước cuốn tiểu thuyết nói đây, Bảo Ninh đã có tập truyện ngắn Trại bảy chú lùn, trong đó có những truyện viết về chiến tranh gây ấn tượng mạnh. Một truyện ngắn khác của ông, viết sau tiểu thuyết, có tên Gió dại cũng rất nổi tiếng trong mạch viết này.

   NBCT xuất bản lần đầu tiên năm 1990 tại nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên gọi Thân phận của tình yêu. Trước đó nó đã được trích đăng trên tạp chí Tác phẩm văn học của Hội. Ngay năm sau nó được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng văn học hàng năm (cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của Dương Hướng). Đây là một giải thưởng đến nay vẫn được coi là “sáng giá” nhất của văn học Việt Nam mấy chục năm qua, trong đó hiển nhiên NBCT là nổi bật nhất, và việc trao được giải thưởng cho nó trong thời điểm bấy giờ cũng là một thắng lợi của tư duy đổi mới trong văn học. Nhà văn Nguyên Ngọc, một trong những người lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam hồi đó, người có công lớn trong việc trao giải cho NBCT, đánh giá rất cao tác phẩm này. Ông viết: “Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng”. Nhưng chỉ ít lâu sau giải thưởng, cuốn tiểu thuyết này đã bị phê phán vì bị cho là thể hiện u ám, sai lạc cuộc  kháng chiến chính nghĩa và vinh quang của dân tộc. Một sự phê phán nặng nề, gay gắt. Tiêu biểu có thể lấy ý kiến của ông Đỗ Văn Khang, tiến sĩ mỹ học và phó tiến sĩ ngữ văn. Ông Khang phẫn nộ vì Bảo Ninh đã gọi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là “cuộc chiến tranh Việt - Mỹ”, đã thể hiện người lính quân đội nhân dân như một lũ thất trận chứ không phải những người mang tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nhân vật Kiên bị ông Khang kết tội như sau: “Đó là một kẻ chiến bại, tìm cách chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn thẳng vào những khó khăn để dồn sức làm được một cái gì đó cho ngày mai”. Sự phê phán bị đẩy tới mức mà Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải thưởng cho nó nhưng rồi lại phải tự lên tiếng phủ nhận giải thưởng đó thông qua ý kiến của một số nhà văn ở trong ban giám khảo hồi ấy. (Mãi tới đại hội Hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII năm 2005 nhà văn Nguyễn Quang Sáng từ trên diễn đàn đại hội mới phát biểu xin lỗi nhà văn Bảo Ninh về chuyện này). Vì vậy nó chậm được tái bản, khác với hai cuốn tiểu thuyết cùng được giải nêu trên. Cho đến tận bây giờ tác phẩm này vẫn còn bị “kiêng kị” ở một bộ phận độc giả hay một tầng lớp nào đó. Nhưng Thân phận của tình yêu / Nỗi buồn chiến tranh đã nhanh chóng được dịch ra tiếng nước ngoài, trước hết là tiếng Anh. Bản dịch Anh ngữ The Sorrow of War của Phan Thanh Hảo và Frank Palmos ra năm 1994 có lẽ là dịch bản đầu tiên. Từ đó đến nay tác phẩm này đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, và là một trong rất ít tiểu thuyết Việt Nam được dịch nhiều nhất. Nó đã được đón đọc và đánh giá cao ở nhiều nước.

   Cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tự truyện, nhân vật chính là Kiên, là người lính sống sót duy nhất của một trung đội trinh sát sau mười năm chiến trận, hết chiến tranh ở đội thu gom hài cốt đồng đội, rồi trở lại nhà sống cuộc sống hậu chiến bất ổn bất an, khi tất cả đã đổ vỡ. Toàn bộ cuộc đời anh đã bị dìm trong chiến tranh: “Theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh, hòa vào tiềm thức, trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh”. Và Kiên viết văn trong những cơn dằn vặt hồi ức từ quá khứ đến hiện tại. Chiến tranh là chủ đề bao trùm cuốn tiểu thuyết, nhưng song hành cùng nó còn có chủ đề tình yêu và nghệ thuật. Đây là một tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong vòng hai mươi năm qua không chỉ là viết về chiến tranh, nó còn là sự chứng thực bề sau và bề sâu những biến động của xã hội và con người Việt Nam đi qua chiến tranh và cách mạng.

   Phẩm chất lớn nhất của NBCT là nó đã thể hiện chân thực người lính, thân phận lính trong cuộc chiến, bất kể là ở chiến tuyến nào, mặc dù cố nhiên người lính cụ thể ở đây là lính Bắc Việt (hay còn gọi là lính Việt Cộng, để phân biệt với lính Mỹ, lính Cộng Hòa). Cuộc chiến được mô tả trong tác phẩm này không mang kèm một định ngữ nào, nó là chiến tranh với tất cả thảm trạng nghiệt ngã của nó, ở đó những người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau. “Và tôi cũng như anh, cũng như mọi người lính thường khác của cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, đã cùng chung một số phận, chia nhau đủ mọi cảnh ngộ thăng trầm, thắng bại, hạnh phúc đau khổ, mất và còn. Nhưng mỗi người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình nhiều khi hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu chung, những nhìn nhận mà sâu trong lòng cực kỳ khác nhau về con người, về thời đại chiến trận, và đương nhiên mỗi người một số phận hậu chiến. Có thể nói chúng tôi giống nhau ở chỗ là hoàn toàn khác nhau trong cái vẻ hoàn toàn giống nhau trong quá trình nặng nề đeo đuổi cuộc chiến”.

   Ở Việt Nam người ta nói: sau NBCT không thể viết về chiến tranh như trước đó đã từng viết được nữa.

Phạm Xuân Nguyên (2016), Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ Mĩ, Báo văn hóa nghệ An

0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
    Bình luận